Nội thương Thương mại Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Chợ

Xem chi tiết: Chợ chùa

Chợ là trung tâm kinh tế của nông thôn, là nơi trao đổi hàng hóa của một xã hay một làng. Tại đây người nông dân và thợ thủ công mang sản phẩm mình sản xuất được như lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, đồ dùng gia đình… ra chợ để mua bán, trao đổi.

Có nhiều hình thức chợ: chợ hàng ngày, chợ họp phiên, chợ cuối năm có tính chất nghi lễ. Địa điểm họp chợ là những nơi rộng rãi, dễ lưu thông như bến sông, trục đường… Hầu hết các làng ở vùng đồng bằng đều có chợ[1], những chợ vùng (lớn) có phiên kế tiếp nhau vào những ngày lẻ, chẵn quanh năm, vì thế người dân một vùng có thể đi hết chợ này đến chợ khác.

Tại vùng trung du và vùng núi, mật độ chợ thưa hơn. Hàng hóa chính ở đây là lâm thổ sản, mọi người mang đến bán hoặc đổi lấy nhu yếu phẩm từ miền xuôi.

Ngoài ra thời kỳ này còn xuất hiện chợ chùa (hay chợ Tam bảo) họp tại các sân, bãi cạnh các chùa và thu nhập từ chợ được đưa lại cho chùa quản lý.

Luồng buôn bán trao đổi

Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các luồng buôn bán lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong nước. Kinh thành Thăng Long, hay Kẻ Chợ, là đầu mối hai tuyến buôn bán dài ngược lên phía bắc và xuôi xuống phía nam là: Kẻ Chợ - thượng du và Kẻ Chợ - Thanh Nghệ:

  • Từ các trấn đồng bằng, gạo muối, hàng thủ công tập trung về Kẻ Chợ đi lên thượng du; từ thượng du các hàng lâm thổ sản như gỗ, tre, mật ong, quế, hồi… và các loại khoáng sản xuôi về Kẻ Chợ.
  • Từ Thanh Nghệ, các thuyền đinh lớn xuôi theo ven biển rồi ngược sông Hồng hoặc sông Đáy, mang các đặc sản miền Trung và ven biển như muối, mắm, cá khô đến cung cấp cho Kẻ Chợ và tỏa đi các trấn đồng bằng, vươn tới các chợ vùng hay chợ xã.

Các thương nhân nổi tiếng trường vốn và buôn bán dài tuyến, dài ngày thời kỳ này gồm có họ Phan ở Trung Liệt (Từ Sơn, Bắc Ninh), người làng Như Phượng (Văn Giang, Hưng Yên).

Xu thế phát triển của kinh tế hàng hóa khiến cho một số làng Bắc Bộ thay đổi hướng làm ăn. Đó là những trường hợp làng Đa Ngưu (Hưng Yên) chuyên buôn thuốc bắc khắp mọi nơi; làng Báo Đáp có nghề dệt vải và nghề nhuộm nhưng trong quá trình tiếp xúc thị trường đã tìm ra nguồn lợi lớn từ buôn bán, do đó họ chuyển hết sang nghề buôn. Làng Phù Lưu ở Bắc Ninh vốn có chợ hình thành từ thời Lê Sơ, người dân cũng có xu hướng chuyển sang buôn bán và chợ Phù Lưu trở thành chợ lớn[2]. Ngoài ra, còn có những làng chuyển sang buôn bán khác như Đan Loan (Hải Dương), Đồng Tỉnh, Xuân Cầu (Hưng Yên), Đông Ngạc (Hà Nội).

Dù bị các chúa Trịnhchúa Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng TrongĐàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao đổi không chính thức[3]. Các thương nhân ở Sơn Nam và Thanh Nghệ mang hàng theo đường biển vào bán ở cảng Thanh Hà; từ cảng này hàng hóa Đàng Trong lại được chuyển ra Đàng Ngoài, theo như ghi chép của Lê Quý Đôn: "Chiếu, đường từ Quảng Nam chở ra, đồ gốm từ Thổ Ngõa chở vào". Khi Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm Phú Xuân đã tìm thấy trong kho chúa Nguyễn rất nhiều tiền nhà Mạc đúc do các thương gia Đàng Ngoài mang vào giao dịch; ngược lại tiền kẽm do các chúa Nguyễn đúc cũng theo thuyền buôn Thanh Nghệ ra Đàng Ngoài[4].

Các trung tâm buôn bán

Thăng Long vẫn đóng vai trò là trung tâm giao dịch lớn nhất của Đàng Ngoài như các đời trước. Ngoài nhu cầu tiêu dùng của vua Lê và chúa Trịnh, nơi đây còn có nhiều phường nghề thủ công như phường giấy Yên Thái, phường lụa Thụy Chương, phường bạc Đông Tác, phường sơn Nam Ngư, phường đồng Ngũ Xã… cùng các phường buôn bán như phường Đồng Xuân, phường Gia Ngư, phường Hội Vũ, phường Kim Cổ. Những phường làm nghề thủ công thì bán sản phẩm ra tại chỗ, phường buôn bán thường kinh doanh chuyên sâu một số mặt hàng như Hàng Lược, Hàng Hài, Hàng Tre, Mã Mây, Hàng Muối…

Alexandre de Rhodes mô tả Thăng Long - Kẻ Chợ vào thế kỷ 18 trong sách Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài: "rộng và dài khoảng 6.000 bước, phố phường rộng có thể đi 10 - 12 con ngựa; dân số khoảng 1 triệu người; có tới 50.000 người bán lẻ tại nhiều địa điểm trong thành phố và vì thế số người mua đông vô cùng"[5].

Phố Hiến được xem là nơi đô hội thứ hai của Đàng Ngoài như câu truyền miệng đương thời: "Thứ nhất kinh kỳ thứ nhì phố Hiến". Chính sách hạn chế người nước ngoài đến buôn bán trực tiếp tại Thăng Long mà chỉ cho phép họ cư ngụ và lập thương điếm ở Vạn Lai triều (tức phố Hiến) cũng là cơ hội cho nơi đây phát triển buôn bán.

Vùng ngoại vi phố Hiến có 20 phường, trong đó có 8 phường thủ công như phường Hàng Giường, phường Hàng Ván, phường Hàng Sũ, phường Hàng Sơn, phường Hàng Nón… Các phường buôn bán là phường Hàng Cau, phường Hàng Cá, phường Hàng Cháo… Người Trung Quốc có mặt ở đây và kinh doanh buôn bán khá đông và lâu dài, có vai trò lớn nhất trong việc kinh doanh tại vùng này. Ngoài ra còn có cả người Anh, người Nhật, người Pháp, người Hà Lan, người Xiêm, người Bồ Đào Nha, người Malay…, trong đó người Hà Lan gắn bó lâu dài chỉ sau người Hoa[6].

Thuế thương mại

Đàng Ngoài thi hành ba loại thuế là thuế sản vật, thuế tuần ty và thuế chợ. Loại thuế tuần ty đánh dấu sự phát triển của việc lưu thông hàng hóa, đồng thời phản ánh sự bóc lột của người cai trị đối với thương nhân[7].

Với thuế sản vật, triều đình thu bằng tiền hoặc hiện vật. Thuế đánh vào mọi ngành nghề sản xuất kinh doanh. Có lúc vì không đủ tiền nộp thuế, người dân đã phá cả dụng cụ sản xuất: vì thuế sơn nên đẵn cây sơn, vì thuế lụa nên chặt khung cửi, vì thuế gỗ nên bỏ rìu, vì thuế tôm cá nên giấu vó lưới[8].

Ngày càng có nhiều thứ thuế: ban đầu chỉ có 400 loại, sau tăng lên hàng vạn loại thuế. Vì thuế ngày càng nặng và nhiều và tệ tham nhũng của quan lại khiến thương nhân phải nợ thuế, giá cả tăng cao. Do tình trạng các tuần ty tham nhũng, năm 1663 chúa Trịnh Tạc đã ra lệnh bãi bỏ 23 tuần ty, năm 1723 bãi bỏ 2 sở, đến năm 1743 chúa Trịnh Doanh bãi bỏ hẳn việc thu thuế tuần ty.

Thuế chợ cũng trở thành gánh nặng cho dân. Vì sự tham nhũng của quan lại, nhiều chợ đã phải chạy trọt để xin thành chợ chùa nhằm tránh thuế[9].